Làm thế nào để ôn và thi NGHE NÓI hiệu quả?

Làm thế nào để ôn và thi NGHE NÓI hiệu quả?

Làm thế nào để ôn và thi NGHE NÓI hiệu quả?
Làm thế nào để ôn và thi NGHE NÓI hiệu quả?

Chào mọi người, mình tên là Hiếu, học FTU Hà Nội (Tài chính-ngân hàng, khóa 47). Mình thi IELTS ở Hội đồng Anh vào ngày 09/06/2012 và được 8.0 (Đọc: 7.5, Nghe: 8.5, Nói: 8, Viết: 7.5). Mình chưa từng nghĩ đến việc viết một cái note chia sẻ kinh nghiệm về việc học thi IELTS (phần vì sợ múa rìu qua mắt thợ, phần vì lười) cho đến hôm tham gia buổi offline của hội nhà mình. Hôm ấy mình có vinh dự được ở lại ăn trưa với các anh chị trong ban quản lý hội. Nói chuyện mới thấy thực sự các anh chị vô cùng giỏi giang và tâm huyết. Từ hôm offline, mình hừng hực quyết tâm phải cống hiến bằng được một cái gì đó, dù nhỏ thôi, cho hội. Mình thấy trên wall của VIC đã có khá nhiều bài chia sẻ kinh nghiệm về viết lách và đọc hiểu rồi, nên có lẽ post này chỉ xin tập trung vào hai kỹ năng nghe nói. Hi vọng có thể giúp ích phần nào cho những bạn bạn đang dùi mài kinh sử!

 

Nói ra thì sợ mọi người ném đá, nhưng thực sự mình chỉ giành 8-9 ngày để luyện thi IELTS, nắm được một cách căn bản format của kỳ thi IELTS, đọc và nhớ một số tips trong các sách tham khảo (vì trước giờ mình chỉ chăm chăm vào TOEFL và SAT). Có thể hơi vội vàng khi kết luận rằng sự chuẩn bị kiến thức nền quan trọng hơn việc học chiến thuật thi, nhưng thực sự đối mình, cái suy nghĩ này đã giúp ích cho mình rất nhiều trong các lĩnh vực của đời sống nói chung và trong việc học tiếng Anh nói riêng.

 

PHẦN I – CHUẨN BỊ KIẾN THỨC VÀ KỸ NĂNG

 

Mình quan niệm muốn học tốt ngoại ngữ là phải để tất cả các kỹ năng phát triển đồng đều. Do đó, mỗi khi làm bất cứ một hoạt động gì liên quan đến tiếng Anh (đọc báo, đọc sách, nghe đĩa…) mình đều kết hợp liệt ra những từ mới, tra từ điển Oxford – ghi ra nghĩa từ và các cụm (collocations) kèm theo, và đọc to các từ mới đó dựa vào bảng nguyên âm…Mình luôn mang theo 1 quyển sổ nhỏ bên mình mọi nơi, mọi lúc, để ghi ra những từ/cụm tâm đắc – ghi một cách ngấu nghiến vì sợ “nếu không ghi nó trôi mất.” Một điểm nữa, mình là một fan trung thành của ngữ pháp tiếng Anh, và mình luôn cảm thấy vô cùng hứng thú mỗi khi làm bài tập về ngữ pháp (nhân tiện, cuốn sách gối đầu giường của mình là “Advanced Language Practice” (của Michael Vince) nhé). Có lẽ cái sở thích rởm đời này được hình thành từ hai yếu tố: một là ở suy nghĩ và hai là ở thói quen của mình. Mình lúc nào cũng tâm niệm rằng ngữ pháp chẳng qua là được đúc ra từ cuộc sống chứ kô fải từ đâu xa lạ, nếu cứ ghét nó thì sẽ không thấy được cái hay ho tiềm ẩn của nó. Ngoài ra, mình cũng có thói quen khi nghe/đọc các bài nói/viết đều rất để ý, thậm chí săm soi từng dấu chấm, dấu phảy, và…đoán trước nội dung sẽ được đề cập tiếp theo. Đối với mình, cái suy nghĩ và thói quen này luôn bổ trợ, bổ sung cho nhau, khiến mình lúc nào cũng vô cùng hứng thú với việc học, chứ không hề có cảm giác chả biết mình đang học cái gì, học cái này để làm gì…mỗi khi nản thì lại có động lực để vượt qua.

 

Trái với nhiều người, mình không thích xem các bản tin (BBC, CNN..) và thường không có đủ kiên nhẫn ngồi bên màn hình căng tai để nghe quá 10 phút, vì nội dung của những bản tin này quá nhàm chán. Ở trường học chuyên ngành, rồi về nhà lại đọc báo tài chính, đã là quá đủ rồi, thêm nghe nữa chắc tẩu hỏa nhập ma. Thay vào đó, mình download và nghe ngấu nghiến những show Mỹ mà mình thích, trong đó có “The Amazing Race,” “The Voice US,” “American Idol,” “X-Factor UK”, và “Fresh Prince.” Như mình đã nói ở trên, nghe cái gì mình cũng cố note ra bằng được một vài chi tiết để bổ sung vào sổ từ. Mỗi khi xem một tập (episode) nào đó, mình thường tua đi tua lại 2-3 lần, ghi ra một số cụm/từ hay ho, và tra Oxford. Việc nghiền mấy show này, mình nghĩ, cũng giúp mình đáng kể trong việc “ngấm” cách cư xử của người bản xứ trong những tình huống của đời sống, cả khi trang trọng, khách sáo lẫn khi thân mật, suồng sã.

 

Mình chủ yếu là nghe nhiều chứ không nói nhiều (vì không có môi trường), nhưng một khi đã nói thì rất chỉn chu, đặc biệt là về phần phát âm. Lúc nào mình cũng cố gắng bắt chước lại người bản xứ một cách giống nhất, và tự hỏi bản thân “Liệu phát âm thế này người Mỹ/Anh có hiểu mình đang nói cái gì không nhỉ?” Chỗ nào không chắc chắn mình tra ngay Oxford để tìm ra cách phát âm đúng, dựa trên bảng phiên âm quốc tế. Đối với những từ phổ biến như caREER, deVElopment, PROduct, PROgram (n),…mình thủ sẵn cái suy nghĩ là nếu không sửa thì sẽ sai mãi. Do đó, lúc nào mình cũng giữ tư duy mở, không bảo thủ và không ngại sửa sai. Nói đến đây mình muốn chia sẻ một chút về sách tham khảo nói chung và sách ngữ âm nói riêng. Đúng là có nhiều sách thì sẽ học được nhiều cái hơn, nhưng lắm thầy nhiều ma, nếu nhiều sách quá thì sẽ rất dễ đẽo cày giữa đường, và phát sinh tâm lý lười, ngại, và mua sách về chất đống (sưu tầm) rồi lại…để đấy. Do vậy, đối với những bạn dư dả thời gian (4-5 tháng trước khi thi), mình khuyên chân thành chỉ chọn 1-2 quyển sách tâm đắc thôi, và quyết tâm theo quyển đó từ đầu đến cuối một cách chuyên tâm. Hôm rồi, mình có ngó qua một số sách dạy ngữ âm, chưa đọc kỹ quyển nào cả, nhưng thấy rất ấn tượng cuốn “American Accent Training.” Sách này trình bày rất hệ thống, khoa học, ngắn gọn, mà lại có nhiều bài tập luyện đi kèm mỗi bài giảng nữa. Các bạn có thể xem qua sách này, nếu thấy hay thì toàn tâm toàn ý đi theo nó luôn, không nên đứng núi này trông núi nọ

 

Trên đây là khái quát về quá trình “học” nghe nói của mình. Nhìn chung mình thấy việc học tiếng Anh theo phương pháp tổng hợp các kỹ năng đã giúp mình đáng kể trong việc đắp xây tình iêu của mình đối với môn này cũng như khiến mình nhận ra sự hữu ích của nó không chỉ trong các kỳ thi (IELTS, TOEFL…) mà còn cả trong những tình huống đời sống nữa. Sang phần Hai của note, mình xin giành toàn bộ để nói về những kinh nghiệm của mình trong buổi thi NÓI.

 

PHẦN HAI – CHINH PHỤC THỬ THÁCH

 

Như mình đã nói ở đầu, mình không phải là chuyên gia IELTS và thực sự là thi IELTS một cách rất ngẫu hứng, chứ không đọc và làm theo sách luyện thi nào cả. Cho nên, có chỗ nào thiếu sót hay sai lầm, mong các sư huynh, sư tỉ góp ý và đính chính. Dưới đây, mình xin mạn phép chia sẻ với các bạn những gì mình cho là nên/không nên làm trong hôm thi, dựa trên kinh nghiệm xương máu của bản thân:

LƯU Ý CHUNG

 

1. Nên gây ấn tượng với giám thị ngay từ đầu bằng cử chỉ và ngôn ngữ:

 

+ Nên giữ tư thế ngồi thoải mái từ đầu đến cuối

 

+ Nên giữ trao đổi bằng ánh mắt với giám thị (không nhìn chằm chằm)

 

+ Nên nói chậm rãi, từ tốn

 

+ Nên dùng một số câu/cụm từ hàng ngày (có thể không liên quan trực tiếp đến bài nói). VD: “pretty,” “amazing,” “absolutely,” “a little bit,” và những từ khác.

 

+ Không nên khua chân múa tay quá nhiều nếu không cần thiết

 

+ Không nên nói quá điệu (âm gió, âm “s” lung tung…)

 

+ Không nên dùng những từ hoa mỹ mà chính mình còn không chắc chắn. Ý nào khó diễn đạt thì nên tìm đến những cách diễn đạt (gần) tương đương. VD: muốn diễn đạt “bận tối mắt tối mũi” thì thay vì “I am truly up to my eyes” thì có thể nói: “B/c of my hectic schedules, I don’t have much time to hang out with my friends.”

 

+ Không nên học tủ, hoặc nếu học cũng phải cho thấy sự tự nhiên (Không nên dùng những templates sáo rỗng như “I am enthusiastic about”…) 2. Trong quá trình phỏng vấn:

 

+ Cố gắng nghe thật kỹ và nắm bắt được ngay ý câu hỏi của người phỏng vấn, tránh tình trạng trả lời lạc đề (chắc sẽ bị trừ điểm nặng!)

 

+ Với mỗi câu hỏi chỉ nên trả lời bằng 1-2 câu văn, không rườm rà, lan man. VD: “Where do you come from?” “What is your home like?” “What do you do in your spare time?”

 

+ Nhất quyết không được có những khoảng lặng dài. Nếu muốn có thời gian suy nghĩ thì có thể đưa vào một số câu đưa đẩy kiểu “Well, I haven’t thought of that yet,” “I mean,” và “you know.” Nhưng không nên lạm dụng.

 

+ Khi nói, nên sử dụng tất cả các thời (đặc biệt ưu tiên thời quá khứ đơn và hiện tại tại hoàn thành), các cấu trúc giả định/điều kiện,…mà mình biết, nhằm cho thấy sự đa dạng trong việc vận dụng kiến thức ngữ pháp. VD: “used to,” “have been”

 

+ Không nên dùng những từ quá đao to búa lớn. Nếu dùng thì trước đó đã phải biết chắc chắn sắc thái ý nghĩa (sense) của nó (dựa vào Oxford)

 

+ Cố gắng đọc chuẩn từng từ (đặt mình vào vị trí của người phỏng vấn xem liệu mình đọc đã đúng chưa, liệu người ta có hiểu ý mình nói không). VD: “cement,” “controversy,” “university,” “career,”

 

LƯU Ý CHO TỪNG PHẦN ĐƠN LẺ

 

1. Phần Personal Interviews:

 

+ Trả lời súc tích (1-2 câu), rành mạch, nhưng không quá ngắn kiểu “Yes,” “No.”

 

+ Không dùng những cấu trúc “sáo” như “I am enthusiastic about…” “I have a penchant for” nếu cảm thấy không tự tin khi sử dụng.

 

+ Một số câu hỏi có thể dự đoán trước: Where do you come from? Tell me about your studies? What do you plan to do in 2-5-10 years? How do you go to school? Do you like reading? Which TV program do you like the most? What kind of food do you like? …

 

2. Phần Speech:

 

+ Ngay khi nhận được tờ đề, gạch chân key words để nói có trọng tâm hơn

 

+ Xác định ngay thời của động từ sẽ dùng xuyên suốt (Hôm mình thi được hỏi câu “Describe an object that you WOULD buy if you HAD enough money.” (điều kiện loại 2) —> dùng Giả định (Subjunctive) xuyên suốt!)

 

+ Gạch ý ngắn gọn nhưng phải thật khoa học. Dùng luôn gợi ý trong đề bài cho nhanh (Where, What, When…), nhưng không quá cứng nhắc bám sát vào các gợi ý đó – thiếu một hai ý (When/where…) cũng không sao. Tất cả những thông tin giới thiệu (nó là cái gì/nó như thế nào…) về điều định nói phải được co gọn lại trong khoảng 2 câu! Phần còn lại nên được giành cho việc nêu ý nghĩa/lý giải…của cái đang thảo luận.

 

+ Nói rõ ràng, rành mạch (có thể nhìn xuống tờ giấy nếu muốn), dùng liên từ nếu cần.

 

3. Phần Discussion:

 

+ Không nên cố dự đoán đề từ task 2 —–> việc này sẽ tạo tâm lý hoang mang không cần thiết!

 

+ Điều quan trọng nhất ở phần này là bắt được ý hỏi của người phỏng vấn và trả lời theo! Phần này mình sẽ bị quay như chong chóng, nên khi giám thị hỏi mình phải cố gắng bật lại ngay —> ghi điểm

 

+ Đối với những câu hỏi đặc biệt (Wh-, How) nên trả lời dài một chút (tầm 3-4 câu), xoáy vào từ để hỏi (Wh-, How) để tránh lạc đề

 

+ Đối với những câu hỏi đoán, có thể trả lời ngắn gọn nhưng cũng không được dùng “Yes,” “No.” Nếu ù tai không nghe thấy gì có thể dùng trick sau: “Well, I suppose so, yeah.”/“Well, I suppose the answer to this question depends on specific situations and on each individual.” (Cái trick này mình chưa kiểm nghiệm, nhưng mình nghĩ khi rơi vào hoàn cảnh này bạn hoàn toàn có thể dùng. Điều quan trọng nhất ở đây, theo mình, là đảm bảo tính tự nhiên khi nói chuyện với giám khảo.)

 

Hi vọng những dòng trên của mình phần nào giúp các bạn ứng phó với bài thi nghe/nói của IELTS một cách dễ dàng hơn. Mình xin kết thúc bài chia sẻ này bằng một câu nói tuy không mới nhưng không hề lỗi thời mà mình vô cùng tâm đắc: “Không có phương pháp học tốt nhất giành cho tất cả mọi người, mà chỉ có phương pháp học hiệu quả nhất đối vời từng cá nhân cụ thể.” Chúc các bạn may mắn, Hiếu

 

By Hieu Minh Nguyen

Nguồn: Hội các sĩ tử luyện thi IELTS