108017 Kinh nghiệm

[ Kinh Nghiệm ] – Lê – First be well-prepared, then follow your heart

My MBA preparation

1. Bắt đầu tìm hiểu thông tin

Tôi bắt đầu có ý định đi du học từ tháng 9/2005, lúc một chị bạn làm chung lên đường đi học ở Anh theo học bổng Chevening. Tôi cũng bắt đầu tìm hiểu thông tin về du học từ đó.

Lúc bắt đầu tìm thông tin, tôi chỉ trông cậy vào các chương trình học bổng chứ không biết được là có những cách mà mình tự apply vào các trường. Dĩ nhiên là có nhiều chương trình học bổng để đi học ở các nước khác nhau như Mỹ, Anh, Úc, Nhật, v.v., nhưng trước giờ tôi chỉ thích đi học ở Mỹ. Đối với tôi, không có nơi nào xứng đáng để mình đi du học hơn là ở Mỹ (chắc do tôi đã quá “kết” bà cô người Mỹ dạy 2 môn American Culture và Public Speaking hồi tôi còn học đại học, và quá thích văn hóa Mỹ). Thế là tôi trông mong vào học bổng Fulbright. Đi học thì cũng có nhiều ngành và nhiều chương trình khác nhau như MBA, Master, PhD. Tính tôi vốn thực tế, thích làm business chứ không thích làm công việc nghiên cứu, nên tôi thấy chỉ có học MBA là phù hợp với mình.

Phải nói là lúc bắt đầu tìm thông tin, như bao nhiêu người khác, tôi hoàn toàn mù tịt, không biết cần phải làm những thủ tục gì, phải thi những gì. Tuy nhiên, ít nhất thì tôi cũng có mục tiêu khá rõ: destination là Mỹ (bao nhiêu người bảo sẽ chỉ cách cho tôi xin các học bổng đi các nước khác dễ hơn nhưng tôi cứ khăng khăng là chỉ đi Mỹ, còn không thì ở nhà không đi đâu cả) và học chương trình MBA (nhiều người cũng khuyên tôi là để xin được Fulbright dễ dàng hơn thì nên học Master, nhưng tôi nhất quyết chỉ học MBA thôi). Vì có mục tiêu như thế ngay từ đầu nên việc tìm hiểu thông tin của tôi khá tập trung chứ không tản mạn, mất thời gian.

Trước khi đến với Usguidemba, tôi cũng lang thang một thời gian ở các forum khác như: SVduhoc, vietabroader, forum gì đó của trường Ams-Hanoi… nhưng dĩ nhiên là tôi chẳng kiếm được thông tin gì về MBA cả. Lúc được anh Khoa giới thiệu forum Usguidemba, tôi mừng húm như bắt được vàng. Đọc xong bài “it is possible to earn MBA assistantship…” thì tôi cảm thấy chắc chắn ngay là tôi có thể đi học, vấn đề là tôi có thực sự muốn đi hay không mà thôi. Sở dĩ phải đặt câu hỏi “có thực sự muốn đi học” hay không là vì, tìm hiểu thông tin là tìm hiểu thế thôi, chứ tôi cũng chưa chắc là sẽ thu xếp được việc gia đình để đi học.

2. Khẳng định mục tiêu và quyết tâm

Câu hỏi “why going abroad” và “why MBA” là một câu hỏi lớn mà tôi phải đặt ra cho chính mình ngay từ đầu. Lý do là vì tôi là người thực tế, làm việc gì cũng phải thấy có ích lợi rõ ràng thì tôi mới làm. “Why going abroad” thì khá rõ ràng, vì tôi vốn luôn thích tìm những trải nghiệm mới trong cuộc sống, và không có gì thú vị hơn là đến sống ở một nền văn hóa khác vài ba năm. Còn “why MBA” thì phải mất một thời gian khá dài tôi mới tìm được câu trả lời và tự thuyết phục được bản thân. Tôi là người ham học hỏi nhưng không phải týp thích sưu tập bằng cấp, nếu học chỉ đơn giản để lấy cái bằng hoặc để có học vị cho oai thì tôi chả bao giờ đi học. Với tôi, có nhiều cách để học hơn là cứ phải tới trường: học từ công việc, học từ bạn bè, học từ những người thành đạt mà tôi quen, học bằng cách tự đọc sách và nghiên cứu… Sau một thời gian tìm hiểu từ nhiều nguồn, nói chuyện với nhiều người, thì tôi thấy cái value lớn nhất của MBA (đối với cá nhân tôi) là cho tôi một network (hoặc ít nhất là access to a network) mà nếu không đi học thì tôi hầu như không thể hoặc cũng phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới tự build được.

Sau khi tự thuyết phục được mình thì tôi phải thuyết phục người thân để họ ủng hộ kế hoạch đi học của tôi. Tôi đã lập gia đình, vì thế không chỉ đơn giản là thuyết phục bố mẹ tôi mà còn phải thuyết phục chồng và gia đình bên nhà chồng. Chỉ trừ một số ít người bạn lớn tuổi, những người đã đi nhiều và hiểu nhiều, từng trải nhiều, mới ủng hộ ý định đi học của tôi. Còn thì bất cứ ai khi nghe tôi có ý định đi học đều bảo tôi điên: từ bố mẹ, anh em, bạn bè thân, v.v. Tất nhiên tôi chỉ cần ông xã tôi ủng hộ là đủ, còn thì ai khác có ý kiến như thế nào tôi cũng không quan tâm lắm, kể cả bố mẹ tôi, vì tôi đã là một người trưởng thành có gia đình riêng, và tôi phải được tự quyết định cuộc sống của mình. Con đường thuyết phục ông xã tôi mới gọi là cửa ải gian nan nhất mà tôi phải vượt qua trong suốt quá trình apply (chứ không phải chuyện thi GMAT hay viết essays), và phải đến lúc tôi nhận được admission của Wharton (và ông xã tôi thì chẳng biết Wharton là cái gì, nhưng cũng lên Google search chữ Wharton thử xem nó là gì, và thấy hình như đây là một trường nổi tiếng) thì ông xã tôi mới chính thức ủng hộ quyết định đi học của tôi.

3. Quá trình làm application

Nếu cuối năm 2005 mà tôi làm gấp rút thì cũng kịp apply cho Fall 2006, nhưng lúc đó career goal của tôi chưa rõ ràng, và tôi cũng chưa hiểu rõ lắm về admission procedure, nên tôi quyết định sẽ apply cho Fall 2007. Phải đến buổi offline với anh Quang và anh Khoa vào tháng 12 năm 2005 thì tôi mới biết rõ là quá trình apply gồm những gì. Trước đó tôi còn chưa biết GMAT là test gì, và ai hỏi tôi định target Toefl bao nhiêu điểm thì tôi đều nói là target Toefl 800 điểm, sau này tôi mới biết là mình nhầm.

Quá trình làm application đòi hỏi sự đầu tư công sức rất lớn, và là một quá trình đi tìm lại chính bản thân mình nhằm hoàn thiện nó hơn. Vì vậy, cho dù tôi có fail hết tất cả các trường thì tôi cũng không tiếc, vì điều quan trọng nhất là qua quá trình này tôi đã nhận ra tôi hay/dở ở chỗ nào và cần improve thêm những kỹ năng nào.

Trong một bài post nào đó tôi đã nói là nên chia việc chuẩn bị apply thành 2 thành phần:

A. Improve yourself
B. Improve your application materials

Và chuyện “improve yourself” quan trọng hơn chuyện “improve application materials”.

108017 Kinh nghiệm

A. Tôi đã tự improve bản thân mình như thế nào?

Tất nhiên là chuyện self-develop bản thân là một chuyện phải làm liên tục và làm cả đời, nhưng ở đây tôi chỉ nói đến việc tôi improve bản thân tính từ thời điểm bắt đầu chuẩn bị application cho đến lúc nhận được admission và improve những mặt liên quan trực tiếp đến bộ hồ sơ của tôi.

Tôi bắt đầu bằng việc lập bảng SWOT chi tiết cho bản thân. Tôi cố gắng lục lọi trí nhớ để xem mình đã làm được những gì hay, đã có những thất bại nào, có kỹ năng nào và thiếu kỹ năng nào. Làm cái này phải mất cả tháng, mỗi ngày add thêm vào list một vài điểm hay remove đi một vài điểm. Thật may là tôi đã có kinh nghiệm sống khá phong phú, kinh nghiệm làm việc vững, và tôi cũng là người ưa hoạt động nên ngoài chuyện công việc thì tôi cũng có những chuyện khác để mà tự hào.

Sau đó, tôi lập ra phương án để củng cố những cái mà tôi còn yếu trong khoảng thời gian cho phép là vài tháng cho đến khi submit application. Tất nhiên có những cái mà tôi cảm thấy không thể củng cố được trong một thời gian ngắn như thế thì tôi đành chấp nhận để sau này sẽ tiếp tục củng cố nó từ từ. Xin liệt kê ra một vài cái mà tôi đã làm.

a. Tiếng Anh

Tôi vốn tự tin về vốn tiếng Anh của mình, vì hồi đại học đã mất 4 năm học chuyên ngành Ngữ Văn Anh mà. Vấn đề là kỹ năng nghe của tôi còn hơi kém, nên tôi đăng ký đi học một lớp luyện Toefl, mà chủ yếu vào chỉ để luyện phần nghe. Sau gần 2 tháng (mỗi tuần học 3 tiếng vào weekend), coi như tôi xong phần tiếng Anh và yên tâm đi thi Toefl.

b. Kỹ năng phân tích

Cái này thì tôi cũng yên tâm, vì nghề Audit của tôi đòi hỏi phải sử dụng kỹ năng này nhiều, và suốt 3 năm làm nghề này tôi bị rèn nhừ tử về kỹ năng này rồi. Hồi học đại học suốt ngày phải phân tích/bình giảng các tác phẩm văn học, phân tích nhân vật, nên tôi cũng gọi là có óc phân tích chứ không đến nỗi tệ. Từ bé đến hết cấp 3 tôi học giỏi đều các môn và cũng luôn là một cây toán lý của lớp. Vì vậy tôi yên tâm về kỹ năng phân tích, nghĩa là tôi sẽ không phải lo nhiều về kỳ thi GMAT.

c. Kỹ năng giao tiếp

Công việc của tôi cũng đòi hỏi phải giao tiếp nhiều, làm việc với external clients là chủ yếu, tính tôi vốn cũng thích giao du, nên may mắn thay là kỹ năng này của tôi cũng ổn. Tuy nhiên, để chắc ăn, tôi cũng lôi mấy cuốn sách cũ dạy về giao tiếp ra đọc lại để refresh đầu óc về vấn đề này.

d. Kỹ năng lãnh đạo

Tất nhiên chẳng thể luyện kỹ năng lãnh đạo trong vài tháng. Tôi chỉ còn cách là tìm đọc mấy cuốn sách về vấn đề này (như cuốn “the art of possibility” chẳng hạn), rồi mò lên website của Harvard (phần mấy sinh viên giới thiệu về leadership style của mình) xem mấy bác sinh viên trên đó định nghĩa leadership là gì, và tự ngồi đánh giá xem mình đã làm tốt được phần nào, phần nào chưa làm tốt. Tôi cũng tự vấn mình xem tôi thích leadership kiểu nào (đây là lần đầu tiên tôi tự hỏi mình câu này). Và tôi cũng nhận ra xưa nay tôi lead theo bản năng là chủ yếu, chứ chưa cố gắng rèn kỹ năng này.

e. Achievements

Tôi lục lọi trí nhớ xem những achievement nào mà tôi tự hào nhất, xem xét nhiều mặt: công việc, cuộc sống, những họat động ngoại khóa, v.v. Lúc ngồi review lại cái này tôi mới thấy là giá mà trước giờ mình result-oriented hơn. Có nhiều việc tôi khởi đầu rất tốt, nhưng không theo đuổi được đến cùng để có achievement/impact cho thật tốt như ý muốn ban đầu. Hoặc trước đây tôi cũng hay có suy nghĩ (như một số bạn trẻ bây giờ vẫn hay rêu rao) đại loại là “life is a journey”, và miễn sao mình enjoy cái journey là được. Đến lúc ngồi làm evaluation về các achievements của cá nhân thì tôi nhận ra là enjoy cái journey cũng quan trọng, nhưng what’s the outcome out of the journey cũng quan trọng không kém. Nếu không có clear goal thì mình cứ chạy loăng quăng, làm việc tà tà, và chẳng làm được mấy việc cho ra hồn. Thôi từ đây tôi sẽ cố gắng balance cả hai mặt: vừa enjoy cái journey và vừa làm sao để có được impact/achievement cho tử tế một tí trong những việc mà mình đã chọn làm.

f. Failures

Tất nhiên là tôi cũng từng nhiều lần thất bại và cũng có thói quen tự rút kinh nghiệm từ những thất bại đó. Nhưng ngẫm kỹ thì thấy mình cũng chưa có thất bại gì cho ra hồn, chứng tỏ mình cũng chưa dám làm những việc nhiều thách thức, chưa dám làm việc lớn nên mới chưa có thất bại lớn. (Hay là đến lúc viết essay về failure, tôi viết là thất bại lớn nhất của tôi là đã 27 tuổi mà chưa có thất bại nào lớn cả ) Thôi thì, rút kinh nghiệm cho sau này vậy …

g. Career goals (short term & long term)

Cái này thì phải nói là rất messy tại thời điểm tôi chuẩn bị làm application. Mất gần cả năm trời (từ cuối 2005 cho đến gần cuối 2006) mà tôi vẫn chưa biết được rút cục là trong tương lai lâu dài mình thích làm gì. Tôi ngồi liệt ra những loại nghề mà tôi thích và không thích. Nhưng vẫn còn lại nhiều cái mà tôi thích quá, tôi phải tiếp tục narrow down cái list. Thế là tôi vào mấy website về career xem description của các ngành nghề còn lại trong cái list “thích” của tôi, rồi tìm những người làm lâu năm trong nghề mà tôi biết để hỏi thêm thông tin thực tế, rồi suy đi tính lại, xem xét ảnh hưởng của công việc đến cuộc sống gia đình sau này (đằng nào rồi tôi cũng sinh con và làm mẹ, đâu có thoải mái mà chọn một công việc mình thích nhưng chẳng còn thời gian cho gia đình và con cái được), rồi phải nhắm xem cái mình thích đó có thực tế không, nhắm có transfer được từ công việc hiện tại sang công việc mới mà tôi thích không, v.v.

h. Life goal

Cũng nhiều lần tôi tự hỏi mình là rút cục thì life goal của tôi là gì, nhưng có lẽ đây là lần mà tôi ngẫm nghĩ về nó một cách serious nhất. Cố gắng gạt bỏ những mơ mộng vớ vẩn và focus vào thực tế. Làm một người mẹ tốt? một người vợ hiền? đạt được đỉnh cao trong một lĩnh vực mà tôi sẽ chọn? kiếm thật ) Tôi có cônhiều tiền và trở nên càng giàu càng tốt? tất cả các điều trên? ( bạn vẫn hay rêu rao là, cuộc sống rất đơn giản: nhỏ thì có cha mẹ nuôi, lớn tí lấy chồng thì chồng nuôi, chồng chết thì con nuôi. Ôi sao tôi không giống bạn tôi cho khỏe, sao tôi lại nghĩ ngợi nhiều làm gì cho mệt cái đầu thế này…

Còn nhiều cái khác mà tôi ngồi tự đánh giá và suy ngẫm…

B. Improve application materials

a. Toefl & GMAT

Với tôi thì 2 cái tests này khá đơn giản và không mất nhiều thời gian lắm. Tôi thanh toán gọn 2 cái test này rất nhanh để có thời gian mà ngẫm nghĩ suy tư nhiều cho phần A trên kia (phần làm tôi cực kỳ hao tâm tổn trí).

Tôi tà tà ôn Toefl trong 2 tháng (mà thực ra chỉ học có mỗi 3 tiếng cuối mỗi tuần, trong đó ngồi ngủ gật hết 1.5 tiếng). Do chủ quan lúc làm bài thi nên điểm Toefl của tôi hơi bị thấp (thế quái nào mà ở nhà tôi làm thử thì lúc nào cũng 650-660, mà đến lúc đi thi chỉ được có 613, tệ thật!). Do cứ assume là 600+ là tốt rồi nên tôi yên tâm gác chuyện Toefl lại, cho đến khi phát hiện ra mình không đủ điểm để apply HBS thì tôi tức ơi là tức. Mà tôi không có thời gian để ôn và thi lại theo kiểu iBT nữa.

GMAT thì tôi ôn tập trung trong 3 tháng: trong đó 2 tháng đầu là trung bình mỗi tuần học được khoảng 6 tiếng, còn tháng sau thì nghĩ phép và ôn mỗi ngày khoảng 6 tiếng (thời gian này tôi phải kết hợp vừa học vừa điều trị bệnh, bác sỹ recommend nên nằm nhiều, nên cũng không tập trung học được tối đa như tôi mong muốn). Đến tuần trước khi thi, tôi định nghĩ phép thêm 1 tuần để ôn thi, thì ông xã tôi bất ngờ nhập viện mổ. Thế là tôi mất tiêu cả tuần ăn dầm ở dề trong bệnh viện, đêm đến thì ngủ lăn ngủ lóc. Tới ngày đi thi, tôi phờ phạc xách gói đi. Phần làm bài viết tối súyt ngủ gục mấy lần. Đến phần tóan tôi cũng chưa tỉnh lắm nên kết quả là thiếu giờ, phải đánh đại mấy câu cuối. Phần verbal tôi mới tỉnh hẳn và làm khá hơn. Kết quả: 680 (target của tôi là 750, và tôi nghĩ bét lắm tôi cũng được 720 cơ đấy). Tôi thất vọng quá chừng, định sẽ thi lại ngay tháng sau đó. Lúc đó đã là cuối tháng 9, nếu thi lại thì tôi phải cắt thời gian viết essays, họăc không kịp apply round 2. (Tôi kể chuyện này để các bạn thấy rằng, việc các bạn gặp một vài biến cố ảnh hưởng đến tiến độ làm application thì cũng là chuyện thường, và đừng vì thế mà nản chí bỏ cuộc hoặc dời lại kế hoạch apply cho đến năm sau. Tốt nhất là bạn nên cố gắng xong mấy cái tests vớ vẩn đó càng sớm càng tốt cho khỏe người.)

Tôi xách kết quả GMAT đi tham khảo ý kiến một số người thì đa số đều khuyên tôi thi lại, trừ anh Tài và mấy người alumni của trường top. Anh Tài khuyên tôi nên đầu tư nhiều thời gian vào essay vì đó là phần quan trọng nhất, viết được essays có chất lượng sẽ mất nhiều thời gian hơn tôi tưởng (mà đúng thế thật). Và tôi quyết định không thi lại GMAT.

Vì GMAT thấp (và vì nghe mọi người trên forum nhà mình hù dzữ quá) nên việc chọn trường của tôi khó khăn hơn, và mặc dù các alumni liên tục trấn an tôi là GMAT như thế là ổn rồi, tôi vẫn thấp thỏm suốt trong quá trình apply cho đến khi nhận được admission và financial aid của các trường. Qua kinh nghiệm cá nhân này, tôi thấy các bạn không cần phải quan trọng hóa điểm GMAT quá. Nếu bạn được khoảng 700-720 và balance giữa 2 phần quant và verbal rồi thì bạn có thể yên tâm quên GMAT đi. Còn nếu bạn bị 680 như tôi thì cũng đừng quá lo: adcom còn nhìn vào các phần khác trong bộ hồ sơ của bạn để đánh giá academic ability của bạn chứ không chỉ dựa vào GMAT. (Tôi cũng may là percentile của Quant là 78% và của Verbal là 85%.)

b. GPA

Dĩ nhiên là tôi chẳng thể làm gì để thay đổi được GPA rồi, và GPA của tôi cũng chỉ có 6.88. Again, GPA cũng chỉ là một phần nhỏ của bộ hồ sơ.

Ngòai ra tôi có một vũ khí khá lợi hại: đó là chứng chỉ ACCA. Chứng chỉ này khá uy tín ở Anh và nhiều nước khác. Và tôi nghĩ rằng chứng chỉ này làm mạnh thêm academic ability của tôi.

Nếu bạn đang học dở dang ACCA, CPA, hay bất kỳ một khóa học gì đó, thì nay bạn có thêm động lực để hoàn thành nó. Các chứng chỉ này sẽ phần nào làm mạnh thêm bộ hồ sơ của bạn xét về mặt academic ability. Tuy nhiên, nếu bạn đang không học gì cả thì cũng đừng nhảy vào học mấy chứng chỉ như CPA hay CFA nếu nó không add value cho nghề nghiệp hiện tại hay tương lai của bạn, adcom sẽ thấy bạn thật non-sense khi đi học một thứ mất thời gian và công sức như thế mà không cân nhắc kỹ đến costs/benefits của nó.

Một cách để làm mạnh thêm academic ability đối với các bạn có non-business background là đăng ký đi học một vài khóa accounting hoặc finance ngắn hạn (nếu bạn chưa học những môn này ở undergraduate). Chọn khóa nào không quá khó nhưng có thi cử đàng hoàng, có cấp certificate hoặc bảng điểm. Ít nhất thì vì bạn không có business background nên việc học mấy khóa này cũng chuẩn bị cho bạn một foundation tốt để bạn dễ thở hơn khi học mấy môn này ở năm 1 của chương trình MBA.

c. Essays

Trong thời gian viết essays, lịch công tác của tôi dày đặc, và cũng nhiều lúc tôi nghĩ đến việc nghĩ làm luôn để có thể tập trung làm application. Nhưng sau này tôi thấy may mà tôi đã không nghĩ làm, chứ nghĩ làm luôn chỉ để ngồi viết application thì đúng là lãng xẹt.

Nếu bạn đã làm kỹ phần A trên đây thì phần viết essays của bạn sẽ trở nên dễ dàng. Nếu bạn không giỏi viết cho văn vẻ thì cứ viết thật thà, nêu rõ ý của mình là được.

Tôi mất nhiều thời gian cho essay số 1 nhất, vì đến lúc viết essay này tôi vẫn còn phải mày mò với cái career goal. Một cái khó nữa đối với essay số 1 của tôi là career path của tôi không ngay hàng thẳng lối lắm: ở undergrad tôi học ngành Anh Văn (suốt ngày nghiên cứu văn chương với văn hóa, lịch sử), đến lúc ra trường lại đi làm kiểm toán (chả ăn nhập gì tới ngành tôi học ở undergrad cả), rồi làm kiểm toán được 3 năm tôi lại nhảy sang làm về private sector development (một lĩnh vực hoàn toàn khác với nghề kiểm toán), rồi tương lai tôi lại muốn switch career nữa. Nếu tôi không giải thích rõ ràng tại sao tôi switch career kiểu đó thì người khác sẽ dễ hiểu lầm là tôi không có mục đích nghề nghiệp rõ ràng nên mới nhảy lung tung. Thế là tôi cố gắng nghĩ ra các story hay ho để giải thích cho việc nhảy nhót lung tung của mình. Lúc tôi đưa cái draft đầu tiên của essay số 1 cho anh Tài xem, anh Tài ngay lập tức question cái career path của tôi. Anh Tài hỏi tôi thật sự là tại sao tôi chọn làm những việc đó. Tôi bèn thật thà kể ra các lý do thực sự của mình, và nói là tôi cố gắng nghĩ ra các story như trong bản draft để nghe cho nó hay hơn. Anh Tài khuyên tôi nên viết các lý do thật của tôi, vì bản thân chúng đã logic rồi, việc gì tôi phải bịa. (Ừ, mà sau này tôi ngẫm lại, tôi là người làm việc gì cũng suy nghĩ cẩn thận nên các lý do thực sự của tôi mới thật là logic hơn bất cứ lý do nào mà tôi bịa ra.) Thế đấy, “be yourself” là điều dễ nhất mà tôi lại cứ cố gắng nắn cho ra hình ảnh mình là người khác, kết quả là phí mất một khoảng thời gian.

Có một lần tôi nói chuyện với một bác Director của trường Wisconsin (tôi và bác này nói chuyện khá nhiều lần qua điện thoại, vì tôi nhờ bác này giúp tôi narrow down cái career goal). Bác này hỏi tôi rất kỹ về các kinh nghiệm làm việc và tại sao tôi chọn những việc đó. Tôi cũng thật thà trả lời hết. (Bác này cũng giải thích là phải hỏi tôi kỹ thế để make sure là tôi có plan hợp lý để mà kiếm đựoc job sau khi tốt nghiệp, và cũng muốn nói chuyện với tôi thật nhiều để test luôn English của tôi. Bác nói không dám nhận những int’l students mà tiếng Anh không fluent (mặc dù trường cũng muốn tăng tỷ lệ int’l students lên), cũng không nhận những người có career plan không rõ ràng, vì những người này sẽ khó kiếm job sau khi ra trường và làm ảnh hưởng đến placement statistic của trường.) Sau đó bác này cũng recommend cho tôi một số path phù hợp trong ngành finance. Xong xuôi bác này bảo tôi hoàn tất essays nhanh lên và submit application càng sớm càng tốt để có nhiều cơ hội xin financial aid hơn. Một tháng sau tôi vẫn chưa submit application, bác này gọi điện hỏi tôi bao giờ thì nộp. Tôi bảo là tôi vẫn chưa biết viết essays thế nào nên chưa nộp được. Bác này ngạc nhiên bảo tôi sao không viết những gì tôi đã nói cho bác ấy nghe, cứ thế mà viết thành essays chứ có gì khó đâu. Lúc đó tôi mới vỡ ra là chỉ cần kể lại câu chuyện có thật của mình, chứ đâu có cần “sáng tạo” ra những câu chuyện thật đẹp đâu, vì mục đích của adcom khi đọc essay chỉ là để biết con người thực của mình.

Một điều khác mà tôi rút ra được sau khi nói chuyện với các adcom là, họ rất quan tâm đến câu hỏi “why”. Đầu tiên họ luôn hỏi “what” (What did you do? what do you like best?), kế đến họ hỏi “how” (How was it? How did it turn out?) và phần “how” này thì quan trọng hơn phần “what”. (Nghĩa là whatever you did, as long as you did it well, as long as you made a difference in what you did, thế là được.) Nhưng sau phần “how” thì chắc chắn họ hỏi tiếp “why” (why did you choose to do that job/that activities? Why did you like it the best? Why did you choose to solve the problem that way?), và phần “why” này sẽ tiết lộ cho họ biết bạn thực sự là ai trong quá khứ và họ sẽ phần nào tiên đoán được potential của bạn trong tương lai. Vì thế tôi có thể nói phần “why” là phần quan trọng nhất, nó cho họ nhìn thấu tâm can bạn và họ sẽ phân biệt được applicants bình thường với applicants xuất sắc. Mặc dù nhiều câu hỏi essay không hỏi “why” một cách trực tiếp, nhưng để viết được những essays có chiều sâu (thoughtful), tôi khuyên bạn nên tự động thêm phần “why” này vào. Và bạn cũng nên tự suy ngẫm lại những động cơ của bạn từ trước tới giờ khi chọn làm việc này hay việc kia, khi chọn cách giải quyết vấn đề, khi make decision, xem mình có thật sự suy nghĩ kỹ mỗi khi chọn lựa, có thật sự làm chủ những chọn lựa của mình chưa. Thử tưởng tượng: tôi chọn học trường đó vì ba mẹ tôi muốn thế và tôi muốn làm hài lòng ba mẹ tôi, tôi chọn công việc đó vì đó là trào lưu thời thượng của năm tôi ra trường… như thế thì tương lai bạn sẽ đi về đâu?

Select facts: có những câu hỏi essays mà tôi có vài câu chuyện để viết và không biết chọn cái nào. May mà tôi có 2 mentors kỳ cựu của forum nhà mình giúp chọn facts để bộ essays có “tầm” hơn. Các mentors, với con mắt tỉnh táo và khách quan (chứ lúc gần cuối giai đọan làm essay thì tôi mệt quá, hết tỉnh táo nổi để tự đánh giá mình) sẽ đóng vai adcom để đánh giá giúp bạn về mặt ý tưởng cũng như cấu trúc/ngữ pháp của essays. Việc làm outline trước và đưa cho mentor xem để góp ý cũng là một cách làm rất hiệu quả cho cả 2 bên. Khi ý của bạn đã thông suốt hết thì việc viết thành bài hoàn thiện khá dễ dàng.

Khi đã quán triệt tinh thần của việc viết essays, tôi viết rất nhanh. Bộ essays của Wharton và Wisconsin (2 trường này tôi viết song song vì có nhiều câu hỏi trùng lặp, và vì tôi phải lấy advice từ bác Wisconsin để viết cho Wharton ) tôi mất gần 3 tháng mới xong. Essays của MIT thì tôi cũng suy nghĩ kỹ nhưng không viết được ra hồn (chắc do không hợp), đành để cuối cùng gần tới deadline thì viết đại cho xong, kết quả là fail. Essays của Chicago viết một lèo (đầy thi hứng!) trong 5 ngày là xong, của Columbia viết trong 3 ngày, và của Vanderbilt thì viết trong 2 giờ xong luôn không phải sửa chữ nào!

d. LoR

Phần này thì mình có ít control. Quan trọng là “thủ thỉ” với sếp như thế nào để sếp viết theo ý mình mà mình không bị lộ ý đồ tự đạo diễn hồ sơ của mình một cách lộ liễu quá. Không nên để các sếp viết LoR mà bạn không biết được tinh thần là sếp viết như thế nào. Nhiều khi sếp rất nhiệt tình muốn giúp bạn, nhưng sếp không hiểu thế nào là competition trong việc apply MBA, nên sếp cứ viết rất chung chung hoặc nhiều khi conflict với hình ảnh mà bạn vẽ ra trong essays thì nguy to. Có một người bạn, tôi nhờ viết optional LoR cho Wharton. Bạn tôi chưa học MBA nhưng ngày xưa từng apply MBA trường top (và rớt hết nên không đi học luôn) và assure với tôi rằng anh biết cách viết LoR cho MBA applicants. Vốn cẩn thận, tôi bảo anh này gửi draft cho tôi xem. Đọc xong cái LoR của ảnh tôi muốn té xỉu. Phần weakness của tôi anh này viết rằng tiếng Anh của tôi chưa tốt lắm (ý ảnh là phải tốt như native speakers thì mới gọi là tốt, đây là do tôi quen ảnh nên hiểu ý ảnh thế, chứ adcom thì sẽ kết luận ngay là tiếng Anh của tôi không đủ tốt để theo học) và 2 năm học MBA sẽ là cơ hội rất tốt cho tôi improve English! Mèn ơi, tôi bỏ $150k và 2 năm để đi học mà ảnh comment là tôi sẽ improve được English, ngoài ra tôi tìm đỏ con mắt cũng không thấy ảnh comment thêm là đi học MBA còn giúp tôi học được gì khác hay ho hơn nữa.

Nên nói cho sếp biết career goal của bạn là gì và lý do tại sao bạn đi học MBA để sếp comment. Theo tôi thì khi bạn đã finalize xong career goal và chọn xong trường thì nên tiến hành xin LoR ngay, đề phòng đến gần deadline sếp lại đi đâu đó cả tháng thì bạn trễ deadline. Chưa kể có sếp ban đầu ừ ừ là sẽ giúp bạn submit online LoR luôn, đến phút cuối sếp bận quá lại bảo bạn thôi để sếp in ra hết, sign and seal cho bạn rồi bạn tự submit qua đường bưu điện cho sếp đỡ mất thời gian làm online. Thay đổi kế họach ở phút cuối kiểu thế thì trễ deadline là cái chắc.

e. Những điểm mạnh trong bộ hồ sơ của tôi

– Well-thought career goals
– Kinh nghiệm làm việc ở những công ty có int’l brandname, quality của kinh nghiệm rất tốt và thú vị. Trong suốt 6 năm kinh nghiệm, tôi gắn bó với 2 cty và với 2 ngành khác nhau, bổ sung cho nhau.
– Kinh nghiệm out-of-work cũng phong phú: tôi làm volunteer cho YMCA (mạng lưới volunteer lâu đời nhất và lớn nhất thế giới) trong 6 năm liên tục. Sau này tôi không còn thời gian tham gia YMCA nữa, nhưng tôi tiếp tục làm volunteer tự do và giúp một số cơ sở charity mà tôi biết trong việc raising fund. Ngoài ra tôi có sở thích nghiên cứu văn học và văn hóa: thời sinh viên tôi đạt giải thưởng của cuộc thi tìm hiểu lịch sử Sài Gòn 300 năm do NVH Thanh Niên tổ chức, và tôi cùng một nhóm bạn lập thành một đội tham gia chuỗi game show “Cửa số văn học” của HTV, liên tục thắng và cuối cùng đạt giải nhất. Sở thích đó còn kéo dài đến bây giờ: tuy tôi không có thời gian tự nghiên cứu hay thi thố gì nữa, nhưng đổi lại tôi thường travel đến chỗ này chỗ kia để tìm hiểu các nền văn hóa khác nhau và đọc các tác phẩm văn học như một hobby.
– Kinh nghiệm sống tự lập từ lúc còn bé: Tôi sống xa gia đình từ bé và phải tự nỗ lực rất nhiều để survive và có được cuộc sống cá nhân như hôm nay và đỡ đần được cho mẹ và các em tôi. (Bài essay này tôi viết rất tự nhiên, không có ai góp ý. Tôi định bỏ nó, nhưng sau lại được nhiều người khen nhất nên tôi submit luôn làm 1 esssay chính cho Wharton và làm optional essay cho tất cả các trường khác.)
– Maturity: điều đó thể hiện trong các phần “why” trong essays của tôi, và thể hiện ở chỗ tôi làm việc gì cũng có commit lâu dài với việc đó, không bỏ ngang giữa chừng các việc tôi đang làm khi tôi chưa đạt được mục đích đề ra, không nhảy việc lung tung như cóc.
– Một chút int’l exposure: tôi có tham gia làm một số dự án ở Lào và Campuchia, từng sang Campuchia làm lecturer về accounting cho một khóa ngắn hạn.

f. Những điểm yếu:

– GPA thấp (6.88), Toefl thấp (613), GMAT (680) nằm ngay border-line.
– Gì khác nữa thì tôi chưa nhớ ra (đang hí hửng mà ).

4. Kết quả cuối cùng:

Tôi apply vào 6 trường: Wharton, Chicago GSB, MIT, Columbia, Vanderbilt và Wisconsin – Madison. Kết quả là tôi được nhận vào 4 trường Wharton, Chicago GSB, Vanderbilt và Wisconsin – Madison và đều được fellowship của mấy trường này. Còn Columbia, tôi được interview nhưng sau đó bị reject, MIT thì bị reject without interview.

Chọn trường nào để đi?

– Nếu tôi đi Wisconsin – Madison thì tôi có thể an tâm ăn học mà không phải lo chuyện tiền bạc (không cần bỏ thêm tiền của mình), vì tiền của trường cho dư sức để tôi tiêu xài thoải mái (đủ sức bao luôn ông xã). Trường này cũng có tỉ lệ placement cho ngành của tôi là gần 100% và vào được những cty lớn như Fidelity, Merril Lynch, etc. Ông Director mà tôi vẫn hay nói chuyện có báo cho tôi là ông có đơn đặt hàng sẵn của mấy cty lớn, nên nếu tôi đi học thì hầu như chắc chắn là tôi sẽ được một chỗ ngon lành cho kỳ thực tập và sau khi ra trường. Tuy nhiên, xét trên nhiều mặt, trường này có nhiều tiêu chí không thu hút tôi bằng mấy trường khác; ví dụ: class quá nhỏ (ngành của tôi chỉ có 20 người học), curriculum thì fix luôn và rất focus và narrow, classmate không có gì xuất sắc để tôi ngưỡng mộ (tôi có vào website đọc hết CV của các sinh viên đang theo học chuyên ngành của tôi). Do đó tôi từ chối theo học trường này.

– Nếu tôi đi Vanderbilt thì tôi được waive tuition, và trường cũng chủ động đặt vấn đề cho tôi negotiate thêm về financial aid. Tôi nghĩ tôi có thể xin được GA ngay từ học kỳ 1 nếu tôi negotiate (vì trong quá trình apply tôi đã trở nên khá thân với 1 director của trường), nhưng vì đằng nào tôi cũng sẽ không thích học trường này, nên tôi từ chối luôn và không kỳ kèo chuyện tiền bạc.

Còn lại 2 trường là Wharton và Chicago, tôi rất rối trí, không biết nên chọn trường nào. Thực sự là tôi thích Wharton hơn vì thấy culture của trường hợp với tôi hơn, khí hậu ở Philly cũng tốt hơn ở Chicago, danh tiếng của Wharton cũng tốt hơn Chicago. Vì thế, nếu không phải cân nhắc chuyện tiền bạc thì tôi quyết đi học Wharton ngay. Tuy nhiên, tại thời điểm mà tôi phải quyết đi trường nào thì Chicago đã thông báo cho tôi một cục tiền to (gần đủ tuition) và còn chìa ra thêm vài suất nữa, bảo nếu tôi đồng ý đi học tại trường thì sẽ xét thêm cho tôi vì policy là mấy suất này chỉ xét cho những người đã đồng ý matriculate thôi (và tôi tin là nếu đi Chicago thì bét nhất tôi cũng được full tuition, ngoài ra tôi có thể xin làm GA từ học kỳ 2). Trong khi đó, Wharton vẫn chưa hứa hẹn gì về fellowship cho tôi (lỗi này là do tôi chưa kịp làm hồ sơ xin fellowship cho Wharton, vì trong thời gian này tôi có vấn đề về sức khỏe phải nhập viện nằm hơn một tuần, và tiếp đó là ba chồng tôi qua đời ngay khi tôi vừa ra viện). Director của Wharton cũng giải thích rõ với tôi là philosophy của Wharton trong vấn đề fellowship khác với Chicago, nên ông chưa biết là tôi sẽ được bao nhiêu từ Wharton (vì tôi chưa nộp hồ sơ – trong đó phải viết thêm essay và một số vấn đề khác nữa), nhưng ông có thể bảo đảm với tôi rằng tôi sẽ chẳng bao giờ được Wharton cho nhiều fellowship như Chicago. (Maximum amount mà Wharton có thể grant cho một sinh viên thấp hơn mức của Chicago mà tôi đang được rất nhiều.) Thế là tôi phải quyết đi học trường nào mà chưa có đủ thông tin để quyết. Tôi có thể không được đồng nào từ Wharton, và được khá nhiều tiền từ Chicago rồi.

Tôi nói chuyện với nhiều người để xin lời khuyên, nhưng thật sự cũng chẳng ích lợi gì, vì ai cũng nói đây là một lựa chọn khó khăn. Mọi người (bao gồm bạn bè, alumni và adcom của 2 trường, alumni của các trường top khác…) đều giúp tôi phân tích nhiều khía cạnh để tôi tự đưa ra quyết định. Lúc đó tôi cứ ước gì mình khá giả một tí để không phải cân nhắc quá nhiều về tiền bạc như thế. $150k cho 2 năm học quả là một gia tài lớn đối với tôi.

Tôi cũng có cái may là mặc dù gia đình tôi chẳng khá giả gì (tôi đi học thì cũng phải dựa vào học bổng hoặc tiền vay, chứ gia đình tôi thì xưa nay tôi vẫn phải support, tiền đâu mà ai support cho tôi, bản thân saving account của tôi cũng chẳng có là bao vì bao năm qua đi làm tôi đều support cho gia đình hết), nhưng không ai đưa ra advise cho tôi là chọn trường nào cho nhiều tiền thì đi vì mọi người sợ tôi buồn. Gia đình tôi, trong đó đặc biệt là ông xã tôi, đều hiểu đây là một quyết định quan trọng của tôi và quyết định này phải được dựa trên sự cân nhắc về những lợi ích cho bản thân tôi, chứ không ai muốn tôi phải bận tâm về gia đình hay phải hy sinh cho gia đình.

Có một chuyện buồn cười, là tôi đi coi bói. Thầy bói nhìn mặt, rút quẻ và phán ngay là tôi sắp đi xa (tôi chưa hé miệng nói gì về bản thân tôi cho thầy đâu nhé). Tôi bèn hỏi là hiện tôi đang có 2 hướng: hướng A và hướng B, và không biết chọn hướng nào (tôi chỉ nói thế thôi chứ không tiết lộ gì thêm). Thầy lại rút quẻ và phán là tôi nên đi theo hướng nào mà có thể có nhiều tiền hơn. (Tôi nghĩ thầm vậy là nên đi Chicago rồi.) Tôi không hài lòng lắm nên bảo thầy rút lại xem nên đi hướng nào. Kết quả vẫn là đi hướng Chicago. Thầy bảo tôi nếu đi hướng kia thì trong 3-5 năm tới sẽ gặp nhiều khó khăn ghê gớm, vất vả khổ sở lắm, trong khi đi hướng mà thầy khuyên thì tôi hầu như khoẻ re, chẳng có gì phải lo nghĩ. Tôi đi về và nghĩ, đúng là “tiền buộc giải yếm bo bo, đưa cho thầy bói rước lo vô mình”.

Cho đến deposit deadline, tôi vẫn chưa quyết được, lúc đó ông xã tôi mới khuyên tôi nên chọn trường nào mà tôi thật sự thích và quên chuyện tiền bạc đi. Ông xã tôi phân tích là chi phí cơ hội cho 2 năm tới là rất lớn (vì ông xã tôi phải bỏ công việc đang làm để đi chung với tôi), vì thế chênh lệch $150k giữa 2 trường cũng không thấm vào đâu so với nhiều giá trị hữu hình và vô hình khác mà chúng tôi phải bỏ ra khi tôi đi học. Vả lại, đây cũng là một cơ hội duy nhất của cả đời người, sau này tôi có muốn cũng chẳng thể làm lại. Thế là tôi quyết định làm theo trái tim: quyết đi học Wharton.

Sau khi quyết xong, tôi mới thảnh thơi đầu óc để tiếp tục làm fellowship application cho Wharton. Kết quả là tôi được trường cho 1 suất lớn nhất và thuộc hàng danh giá nhất của trường (nhưng không đủ tuition đâu nhé). Tôi cũng được biết là có làm GA cho Wharton thì cũng chỉ để lấy thơm lấy thảo chứ tiền GA chỉ đủ uống café cho vui thôi. Tôi sẽ phải vay thêm một khoản lớn mới đủ trang trải cho 2 năm tới.

Thế là tôi đã quyết đặt chân lên một con đường đầy thử thách. Tôi biết còn nhiều khó khăn chờ đợi ở phía trước, nhưng tôi tin là tôi và gia đình tôi sẽ vượt qua. Được làm điều mình thật sự thích quả là một may mắn lớn mà tôi luôn được cuộc sống ban tặng.

5. Kết luận

Tôi tin rằng việc chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ giúp bạn thành công. Nếu bạn chưa sẵn sàng về mặt kinh nghiệm thì không việc gì phải vội, việc học là việc cả đời. Đầu tư cho MBA là một khoản đầu tư rất lớn, nên bạn cần chuẩn bị kỹ để đạt được kết quả tốt nhất. Việc làm application tuy chỉ kéo dài khoảng 6 tháng, nhưng sẽ ảnh hưởng đến cả chặng đường dài của bạn phía trước, kể cả lúc còn đang học lẫn lúc tốt nghiệp rồi. MBA, suy cho cùng, chỉ là cái bàn đạp để bạn đạt được những mục tiêu xa hơn, chứ không phải MBA là cái mục tiêu cuối cùng của bạn.

Chúc các bạn đang chuẩn bị hồ sơ sẽ thành công vang dội !!!

 

Nguồn : vietmba ( http://vietmba.com/showthread.php?t=859 )